Ads
Home | Blg | FAQ | Buy Pixels | Language

Tứ Thánh Đế

Là bốn Chân Lý Thánh giúp chúng ta chứng quả vị A La Hán, quả Bất Lai, quả Nhất Lai, quả Dự Lưu (thất lai).

Đức Phật đã tuyên thuyết Tứ Thánh Đế sau khi Ngài chứng vô thượng chánh đẳng, chánh giác. Có thể nói rằng đây là một công thức bất biến có thể áp dụng vào bất cứ vấn đề gì từ tu thành Phật cho đến việc giải quyết những khó khăn hằng ngày.

Có nhiều nơi gọi là Tứ Diệu Đế là không đúng là vì như vậy sẽ làm nhiều người hiểu lầm, không giúp ta thành Phật chỉ dành cho căn cơ thấp hoặc dành cho Tiểu Thừa và đi tìm cái gì cao siêu hơn. Đây là một sai lầm lớn đối với những ai có tư tưởng như vậy.

Nói một cách tổng quát, Tứ Thánh Đế sẽ đưa chúng ta thành Phật, đạt Niết Bàn .

Nếu không có Tứ Thánh Đế sẽ không thể nào thành Phật hết vì đây là con đường xưa cũ mà những vị Phật quá khứ đã đi qua. Phật Thích Ca hiện tại đã khám phá ra con đường xưa cũ đó và chỉ lại cho chúng ta đi theo, nếu chúng ta không đi theo thì chỉ còn khoảng hơn 2300 năm nữa thì con đường Bát Thánh Đạo sẽ bị che lấp, không ai biết nữa và phải đợi đến tuổi thọ loài người đến 84000 tuổi thì vị Phật tương lai Di Lặc sẽ khám phá con đường xưa cũ này chỉ cho loài ngưởi. Từ khi mất Tứ Thánh Đế thì loài người sẽ sống trong tối tăm một thời gian rất dài.

Hôm nay chúng ta sinh ra làm người, không gặp Phật nhưng gặp Tứ Thánh Đế rất may mắn, nếu không học hỏi thật uổng phí một kiếp may mắn làm người.

1/ Chân lý Thánh đầu tiên là Khổ Đế

Khổ Đế là trạng thái đang xảy ra làm cho thân đau đớn hoặc tâm hồn buồn, sầu, bi, khổ.

Trạng thái khổ đang hiện hữu còn gọi là quả. Đây là sự thật nhưng phải biẽt rõ là khổ do duyên xúc sinh ra . Duyên xúc cần hai yêu tố, nội xứ (căn) và ngoại xứ (trần), chỉ có căn mà không cỏ trần thì khổ không sinh ra hoặc chỉ có trần không có căn thì khổ cũng không hiện hữu.

Khi nội xứ (mắt, tai, lưỡi, mũi, thân và ý) tiếp xúc với ngoại xứ (sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp) sẽ có 1 trong 3 trạng thái là lạc hay khổ hay không khổ không lạc xảy ra. Nhưng Đức Phật chỉ nói khổ mà không nói hai trạng thái kia là vì tuy 3 trạng thái khác nhau nhưng do một duyên ngoại xứ tác động, do sự biến đổi của ngoại xứ nên có ba trạng thái nhưng trạng thái khổ cuối cùng nên dùng chân lý Khổ mà không dùng hai cái kia.

Ví dụ hai người yêu nhau do duyên xúc giữa hai người phát sinh trạng thái lúc đầu lạc nhưng theo thời gian thì trạng thái lạc giảm dần xuống 0 tức là không khổ không lạc, rồi theo thời gian một trong hai người mất thì trạng thái thứ ba đến là Khổ. Như vậy trạng thái khổ là cuối cùng.

Đa số con người khi gặp quả khổ là cầu Trời khấn Phật giúp cho mình hết khổ hoặc tin vào Thượng Đế đã phạt mình. Nhưng không ai chịu tìm hiểu vì sao mình khổ, rồi theo thời gian cái khổ cũng qua đi rồi sau đó cái khổ khác lại đến nữa rồi cứ như vậy khổ không chấm dứt.

Chân lý về khổ là sự thật, không một ai không bị chi phối bởi chân lý này. Những cái khổ thông thường ai cũng gặp là:

- Ái biệt ly, người mà mình thương yêu xa nhau do sự vô thường.

- Oán tằng hội, người mà mình không ưa cứ gặp nhau hoài.

- Cầu bất đắc, là những gì mà mình muốn nhưng không đạt được.

- Sinh ra ai cũng khóc, bệnh ai cũng khổ, già nua ai cũng sợ, chết ai cũng khổ.

Ai cũng thấy khổ nhưng không có ai chịu tìm hiểu khổ do đâu mà sinh ra đế chấm dứt vĩnh viễn. Thí dụ, ai cũng thấy trái táo bị rớt nhưng không ai thắc mắc tại sao cho đến khi Newton tìm hiểu tại sao thì mới biết do sức hút trái đất, từ đó con người mới áp dụng khám phá này vào nhiều lãnh vực trong cuộc sống như xe hơi, xây nhà nhiều tầng, hay máy bay, v.v..

Đức Phật là người đã thắc mắc tại sao con người bi khổ, bị già, bị chết từ đó mới khám phá ra nguyên nhân của khổ và Ngài đã giải thích của khổ qua 12 nhân duyên là:

Vô minh làm duyên sinh ra Hành, rồi sinh ra Thức, rồi sinh ra Danh Sắc, sinh ra Lục nhập rồi sinh ra Xúc, rồi sinh ra Thọ, rồi sinh ra Ái, rồi sinh ra Thủ, rồi sinh ra Hữu, rồi sinh ra Sinh, rồi sinh ra Sầu, Bi, Khổ, Ưu, Già và Chết.

Do đó Ngài nói lên chân lý thứ hai của bậc Thánh là nguyên nhân của khổ.

2/ Chân lý bậc Thánh thứ hai là Tập Đế:

Như vậy muốn hết khổ mà không biết nguyên nhân của khổ thì khổ không bao giờ hết, nhưng làm sao biết được nguyên nhân là vấn đề cực kỳ khó khăn.

Thí dụ trong nhà, gạo trong lu bị thất thoát, nhưng thủ phạm không xác định được thì vấn đề mất gạo sẽ còn nhưng nếu biết thủ phạm thì việc bắt thủ phạm sẽ dễ dàng thôi.

May mắn cho chúng ta, đức Phật đã khám phá được nguyên nhân nào dẫn đến sinh, sầu, bi, khổ, ưu, già và chết.

Nhiều kinh sách ngày nay khi bàn sinh tử mà không biết nguyên nhân sinh tử, thử hỏi kinh điển đó có ra khỏi sinh tử được hay không?

Tập Đế hay là nguyên nhân sinh ra sinh tử luân hồi chính là 12 nhân duyên. Đây là một khám phá vĩ đại của Đức Phật, mà không một tôn giáo nào có hết, thông thường con người chỉ thấy được một nhân thôi, không thể nào thấy tiến trình sinh tử là một chuỗi 12 nhân duyên.

Như Newton không khám phá trái táo rớt xuổng do sức hút trái đất thì hôm nay chắc chắn không có xe hơi và máy bay. Tương tự, ai mà không thấy và hiểu 12 nhân duyên sinh tử thì không thể nào thành Phật được.

Vì không thấy rõ 12 nhân duyên mà Đạo Phật ngày nay không ai chứng quả Phật và có Ba Minh mà chỉ thuần bàn lý thuyết thôi và đã phát sinh ra nhiều cách tu khác nhau, không còn theo con đường xưa cũ mà Đức Phật đã khám phá.

Tiến trình sinh tử là Vô minh Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xủc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Tử.

Vô minh là điểm xuất phát, là nhân đầu tiên, và sinh tử là nhân và quả cuối cùng.

Vô minh là không rõ biết đây là khổ, không rõ biết tập khởi của khổ, không rõ biết diệt khổ và không rõ biết con đường dẫn đến diệt khổ.

Khi rõ biết đây là khổ tức là Minh, thì tiến trình sinh tử này sẽ thời gian chấm dứt tối đa là 7 năm và nhanh nhứt là 7 ngày (kinh tứ niệm xứ) là do thời gian đi từ hành đến sinh tử.

Ví như một bó củi đang cháy nhưng không thêm củi nữa thì củi còn lại có thời gian để cháy hết. Thời gian cháy hết củi sẽ là thời gian chứng quả.

Nhưng Vô minh mà nhiều người hiểu và suy diễn không đúng với kinh tạng Nikaya nên Vô minh bị hiểu sai.

Ví dụ có một người đem một trăm lượng vàng cho mình, nếu là Minh thì rõ biết vàng bạc là khổ nên tâm không khởi lên tham (ý hành) thì mọi chuyện chấm dứt nhưng nếu Vô minh thì tâm khởi lên muốn như để xây chùa, giúp người nghèo thì hành sẽ sinh ra và toàn bộ khổ uẩn sẽ hiện hữu.

Minh là rõ biết đây là khổ, rõ biết tập khởi của khổ, rõ biết diệt khổ và rõ biết con đường đưa đến diệt khổ thì việc chấm dứt sinh tử rất nhanh.

Hôm nay chúng ta không học và không tìm hiểu Tứ Thánh Đế thì chắc chắn chúng ta sẽ luân hồi dài lâu mà không biết đến bao giờ mới ra được sinh tử.

3/ Chân lý thứ ba là Diệt Khổ Đế:

Biết nguyên nhân sinh ra khổ rồi, muốn hết khổ thì phải tiêu diệt cái Nhân chứ không phải diệt cái Quả.

Nguyên nhân sinh ra Sinh Tử là Vô minh, Hành, Danh Sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, thủ, Hữu, Sinh và Tử. Muốn không Tử thì diệt Sinh trước, muốn không có Sinh thì diệt Hữu trước, muốn không có Hữu thì diệt Thủ trước, muốn không có Thủ thì diệt Ái trước, muốn không có Ái thì diệt Xúc trước, muốn không có Xúc thì diêt Lục nhập trước, muốn không có Lục nhập thì diệt Danh Sắc trước, muốn không có Danh Sắc thì diệt Thức trước, muốn không có Thức thì diệt Hành trước, muốn không có Hành thì diêt Vô minh trước.

Như vậy, muốn hết khổ thì phải chấm dứt Vô minh trước vì là nhân đầu tiên, nếu Vô minh diệt rồi thì Hành diệt, rồi Thức diệt, rồi Danh Sắc diệt, rồi Lục nhập diệt, rồi Xúc diệt, rồi Thọ diệt, rồi Ái diệt, rồi Thủ diệt, rồi Hữu diệt, rồi Sinh diệt, rồi Tử diệt.

Diệt khổ đế là chấm dứt hoàn toàn nguyên nhân khổ, sẽ chứng một trong bốn quả Thánh sau đây:

a/ Quả A La Hán là chứng diệt thọ tưởng định, có ba minh là lậu tận minh (không còn các lậu hoặc nữa), túc mạng minh là nhớ đươc vô số kiếp quá khứ, thiên nhãn minh có thể nghe tiếng loài người, tiếng chư thiên xa hay gần.

b/ Quả Bất lai đã diệt năm hạ kiết sử sinh lên cõi trời sắc cứu cánh, nhập Niết Bàn ở đây.

c/ Quả Nhất lai, sinh lại thế gian này một lần nữa rồi nhập Niết Bàn ở đây.

d/ Quả Thất lai, sinh lại thế gian tối đa 7 lần rồi nhập Niết Bàn ở đây.

Diệt Khổ Đế là quả tối hậu mà người xuất gia phải chứng cho được.

Làm thế nào để tiêu diệt nguyên nhân thì Đức Phật chỉ cách hay phương pháp gọi là Đạo Đế.

4/ Chân lý thứ tư là Đạo Thánh Đế

Đạo Thánh Đế là gì?

Là tám Thánh đạo nhằm chấm dứt những nguyên nhân rồi đưa đến Niết Bàn.

Đạo Thánh đế gồm có:

1. Chánh kiến

2. Chánh tư duy

3. Chánh ngữ

4. Chánh nghiệp

5. Chánh mạng

6. Chánh tinh tấn

7. Chánh niệm

8. Chánh định


Hầu hết Phật tử ai cũng biết 8 Thánh đạo này nhưng hiểu đúng nghĩa rất khó, muổn hiểu đúng phải lấy kinh tạng Pali làm chuẩn, nhưng kinh tạng Pali xuất hiện bằng tiếng Việt không lâu lắm, nhiều người không có duyên đọc được nên không thể nào hiểu chính xác được.

Theo kinh tạng Pali thì ý nghĩa như sau:

- Chánh kiến là rõ biết biết đây là khổ, rõ biết đây là tập khởi của khổ, rõ biết đây là diệt khổ, rõ biết con đường dẫn đến diệt khổ.

- Chánh tư duy là tư duy về ly dục, tư duy về ly sân, tư duy về ly hại.

- Chánh ngữ là không nói dối, không nói hai lời, không nói độc ác, không nói phù phiếm.

- Chánh nghiệp, không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm.

- Chánh mệnh là nuôi thân mạng chân chánh.

- Chánh tinh tấn là tứ chánh cần.

- Chánh niệm là tứ niệm xứ.

- Chánh định là tứ thiền.

Trong Bát Thánh đạo, chánh kiến và chánh tư duy rất quan trọng, là con dao sắc bén nhứt để chặt đứt vô minh và ái thủ. Còn chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mệnh giúp cho chúng ta không phát khởi những hành vi mới nữa. Còn chánh tinh tấn là siêng năng làm cho xong.

Chánh niệm: là quán nhìn thân, thọ, tâm và pháp do những gì đã tạo ra rồi mà không phản ứng lại, nó như dòng nước chảy đến một lúc thì dòng nước sẽ hết.

Sau khi đã làm nhuần nhuyễn 7 chi phần trước thì tâm sẽ chánh định, hay tâm quân bình rồi, rồi sẽ chứng nhất thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền. Đến tứ thiền đã bỏ dục giới rồi bước vào cõi sắc giới nhưng còn phải vượt qua vô sắc giới nữa. Tu đến chánh định gọi là bậc hữu học.

Trong kinh Trung bộ có bài kinh Bốn mươi, thêm hai chi phần nữa là chánh trí và chánh giải thoát. Tu đến chánh giải thoát gọi là bậc vô học.

Hành giả phải vượt qua bốn tầng thiền nữa là Hư Không vô biên xứ, Thức vô biến xứ, Vô sở hửu xứ và Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Khi vượt qua cõi Vô sắc giới thì chứng Diệt Thọ Tưởng định.

Tóm lại trong Bát Thánh đạo, Chánh kiến và Chánh tư duy rất quan trọng nếu hai chi phần này hiểu sai thì sẽ không thể nào tu đến giải thoát.

TỨ THÁNH QUẢ QUA KINH TẠNG PĀLI

Tứ Thánh quả là bốn cấp độ đạo quả được Phật chỉ ra giúp hành giả đánh giá được sự tu chứng của mình. Người chứng được một trong bốn Thánh quả này được xem là có tư cách của bậc Thánh, có Thánh tính, có giá trị làm Thánh, vượt lên sự tầm thường của con người, nếu ai cung kính cúng dường các vị này sẽ có phước rất lớn tùy theo cấp bậc chứng ngộ của họ. Tiêu chuẩn để đánh giá các quả vị Thánh là dựa vào mức độ tăng trưởng Đạo quả qua việc phá trừ các Kiết sử (samyojana).

Có mười kiết sử bao gồm Ngũ hạ phần kiết sử ‘orambhāgiya-samyojana’ (thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục và sân) chúng trói buộc chúng sinh trong phạm vi dục giới; và Ngũ thượng phần kiết sử ‘uddhambhāgiya-samyojana’ (hữu ái, vô hữu ái, mạn, trạo cử và vô minh), chúng trói buộc chúng sinh trong cõi sắc giới và vô sắc giới.

Hành giả áp dụng tu tập ngang qua Tam vô lậu học (giới, định, tuệ) sẽ dần dần đoạn trừ sạch chúng.
Tiến trình tu tập đoạn trừ các kiết sử và chứng đắc các thánh quả sẽ được tuần tự trình bày như sau:

1. Thánh quả Dự lưu-Tu đà hoàn (Sotāpanna)

Thánh quả Dự lưu-Tu đà hoàn (Sotāpanna) là bậc Thánh đầu tiên trong bốn Thánh quả. Thánh quả này được gọi là đã ‘Mở con mắt của Pháp’ (dharmacakkhu), chứng đắc pháp nhãn, tức là nhận ra rằng bất cứ điều gì sinh ra điều sẽ hoại diệt (vô thường). Niềm tin của họ trong giáo pháp thực sự sẽ là không thể lay chuyển hay gọi là ‘bất hoại tín’.
Bậc thánh này cũng được gọi là Thánh quả ‘Thất lai’, tức là còn bảy lần sanh tử nữa mới chứng Thánh quả A La Hán. Vị ấy đã đoạn trừ ba kiết sử đầu là: thân kiến (sakkāyadiṭṭhi), nghi (vicikicchā), và giới cấm thủ (sīlabbataparāmāsa). Kinh tạng Nikāya định nghĩa như sau: “Ở đây Tỷ-kheo đoạn dứt ba kiết sử, thành bậc Dự lưu, không đọa ác thú, chắc chắn đạt quả Bồ-đề.”[1]

Tăng chi bộ kinh mô tả vị hành giả tu tập dần dần theo giới, định, và tuệ để đoạn trừ các kiết sử, chứng đắc thánh quả dự lưu như sau: “Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ Kheo đối với các giới luật, hành trì toàn phần, đối với định, hành trì một phần, đối với tuệ, hành trì một phần. Vị ấy không có vi phạm học pháp nhỏ nhặt nhỏ nhiệm nào, vị ấy được xem là thanh tịnh. Vì cớ sao?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Ta không tuyên bố chúng làm cho vị ấy không có khả năng. Phàm có những học pháp nào là căn bản Phạm hạnh, tương xứng Phạm hạnh, ở đây, vị ấy kiên trì giới ấy, kiên trú giới ấy, chấp nhận và học tập trong các học pháp. Vị ấy, do đoạn tận ba kiết sử, là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc đạt đến Chánh giác.[2]

Như vậy thánh quả Dự lưu (Stream-winner): Thực hành trọn vẹn về giới, định hành trì một phần, tuệ, hành trì một phần, đoạn trừ ba kiết sử đầu tiên và chứng đắc sơ quả.
Ở đây, bậc dự lưu chưa thể loại bỏ toàn bộ góc rễ bất thiện (akusalamula) như tham (loba), sân (dosa) và si (moha). Tuy nhiên, vị ấy là một trong những người đã muội lược những góc rễ bất thiện, đi vào dòng thánh, thành tựu phạm hạnh đoạn trừ tất cả những ác pháp, đạt được hạnh phúc tột cùng (parama sukha) là Niết-bàn và không còn thối đọa.

2. Thánh quả Nhất lai - Tư đà hoàn (Sakadāgāmi)

Thánh quả Nhất lai là quả vị thánh thứ hai trong tứ thánh quả. Sao gọi là nhất lai? Bởi vì thánh quả này phải còn trở lại một lần sanh tử nữa mới chấm dứt khổ đau, đạt đến quả vị vô sanh. Những ai đoạn tận ba kiết sử như trong trường hợp của Thánh quả dự lưu, và làm muội lược hai kiết sử tiếp theo, đó là Dục (kāmacchando) và Sân (byāpāda), được gọi là Thánh quả Nhất lai - Tư đà hoàn (Sakadāgāmi).
Trường Bộ Kinh định nghĩa: “Tỷ-kheo đoạn dứt ba kiết sử và làm nhẹ bớt tham, sân, si, thành bậc Nhứt lai, còn phải sanh lại trong đời này một lần nữa trước khi diệt hẳn khổ đau.”[3]

Với tam vô lậu học, Thánh quả Nhất lai (Once-returner) thực hành trọn vẹn về giới, định hành trì toàn phần, tuệ, hành trì một phần, đoạn trừ ba kiết sử đầu tiên và làm muội lược tham, sân, si.

3. Thánh quả Bất lai-A Na Hàm (Anāgami)

Thánh quả Bất lai-A Na Hàm là Thánh quả thứ ba, vị ấy đã đoạn trừ hoàn toàn năm hạ phần kiết sử (orambhagiya saṃyojana), sau khi thân hoại mạng chung sẽ được tái sinh cõi Phạm thiên, và không bao giờ tái sinh trở lại nữa.
Đức Phật dạy: “Vị Tỷ-kheo đã đoạn dứt năm hạ phần kiết sử, thành vị hóa sanh, nhập Niết-bàn tại đây, không còn phải trở lại thế giới này nữa.”[4]

Thánh quả Bất lai (Non-returner): Thực hành trọn vẹn về giới, định hành trì toàn phần, tuệ hành trì một phần, đoạn tận năm hạ phần kiết sử được hóa sanh, tại đấy nhập Niết-bàn, không còn phải trở lui đời này nữa.

Như vậy, bậc A Na Hàm chỉ loại bỏ năm hạ phần kiết sử và đặc biệt là tận diệt ham muốn nhục dục (kāmacchando) và sân (byāpāda), còn ba kiết sử dưới (thân kiến, nghi và giới cấm thủ) đã được loại bỏ từ trước.

4. Thánh quả A La Hán (Arahant)

Sau khi phá luôn năm kiết sử cuối cùng, tức hữu ái, vô hữu ái, mạn, trạo hối và vô minh, một vị A-na-hàm sẽ chứng A-la-hán, nghĩa là đạo đức đã trở thành tuyệt đối hoàn hảo. Không một thần Thánh thiên tử nào có thể tìm thấy lỗi lầm của một vị A-la-hán được nữa.

Với tam vô lậu học, Thánh quả A La Hán (Arahant), thực hành trọn vẹn về giới, định hành trì toàn phần, tuệ hành trì toàn phần đoạn tận 10 kiết sử.

Thanh Tịnh đạo giải thích: “Lý do đắc quả Dự lưu và Nhất lai là Giới, quả Bất hoàn là Định và quả A-la-hán là Tuệ. Vì bậc Dự lưu được gọi là người ‘thành tựu viên mãn các phẩm loại của giới’, bậc Nhất lai cũng vậy, bậc Bất hoàn được gọi là ‘viên mãn định’ và A-la-hán là bậc ‘tuệ viên mãn’.[5]
Giải thoát hoàn toàn khổ đau sinh tử luân hồi là bậc A la hán, vị ấy: “sanh đã tận, phạm hạnh dĩ thành, bất thọ hậu hữu.” (‘Destroyed is birth, the holy life has been lived, what had to be done has been done, there is no more for this state of being.’)[6]

Nơi đây, đương nhiên một vị A-la-hán cũng đã thành tựu xong bốn mức thiền. Khi công phu tu hành dần tiến bộ, ta có thể làm suy yếu các kiết sử này, để rồi cuối cùng chế ngự và hủy diệt được chúng ở từng giai đoạn thiền định. Sau mỗi giai đoạn vị ấy đạt đến một tầng cao hơn của sự giác ngộ.
Khi chế ngự được ba kiết sử đầu tiên, hành giả đạt được sơ thiền. Làm suy yếu được hai kiết sử kế tiếp, hành giả đạt đến nhị thiền. Tuy nhiên, dư phần của dục tham và sân vi tế hơn tất cả những gì đã được diệt bỏ.
Khi hành giả cuối cùng vượt qua được các dư phần này, thì đạt đến tam thiền. Năm kiết sử cuối cùng rất vi tế. Khi diệt trừ được chúng, hành giả đạt đến tầng thiền thứ tư và là tầng cuối cùng của giác ngộ (final stage of enlightenment). Tứ thiền và Tứ Thánh quả đều hiện diện đầy đủ nơi vị A-la-hán như thế.

Trong Trung Bộ kinh đức Phật định nghĩa về Tứ thánh quả qua việc đoạn trừ các lậu hoặc như sau: “Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo là những A-la-hán, các lậu hoặc đã đoạn trừ, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống, mục đích đã thành đạt, hữu kiết sử đã được đoạn tận, được giải thoát nhờ chánh trí.

Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, từ ở đấy được nhập Niết-bàn, không còn phải trở lại đời này nữa.
Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này, này có những Tỷ-kheo đã đoạn trừ ba kiết sử, đã làm cho muội lược tham, sân, si, là bậc Nhất lai, sau khi sanh vào đời này một lần nữa, sẽ đoạn tận khổ đau.
Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt trong chúng Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo, có những Tỷ-kheo đã đoạn trừ ba kiết sử, là bậc Dự lưu, không còn đọa vào ác đạo, chắc chắn sẽ được giác ngộ.”[7]

Tất cả của bốn quả vị trên đều có thể xuất nhập trong Thánh quả mà họ đã đạt được một cách dễ dàng. Vị ấy an trụ trong thiền và tận hưởng pháp lạc mà mình đã chứng đạt, hoàn toàn thoát ly mọi tham ái, chấp thủ, nhận chân được rằng tất cả pháp hữu vi là huyển mộng, do vậy không còn tham luyến gì trên đời này nữa.[8]
Tứ Thánh quả ấy, Đức Phật gọi là cuộc sống Thánh thiện: “Và này các Tỳ kheo, là hoa trái của đời sống thánh thiện: Thánh quả Dự lưu, Thánh quả Nhất lai, Thánh quả Bất lai, và Thánh quả A La Hán. Chúng được gọi là cuộc sống thánh thiện.”[9]

A La Hán được gọi là Bậc lậu tận: ngoài việc đoạn trừ mười kiết sử như trình bày ở trên, vị A La Hán cũng đoạn trừ sạch tất cả các lậu hoặc, bao gồm: dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Lậu hoặc (āsava), là những thứ bất tịnh rĩ chảy ra. Nó là yếu tố làm dơ bẩn tâm, trói buộc tâm và nhấn chìm chúng sinh trong vòng luân hồi sinh tử.
Lậu hoặc được đoạn trừ hoàn toàn chỉ diễn ra ở một vị chứng ngộ quả vị A La hán. Một bậc đạt được trạng thái hoàn toàn giải thoát tất cả mọi lậu hoặc được gọi là A La hán, bậc lậu tận. Trong kinh tạng định nghĩa một vị A La Hán như sau: “Thông qua sự đoạn tận tất cả các lậu hoặc (Āsavakkhaya), vị ấy đã đạt đã đạt đến trạng thái của tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chứng đắc lậu tận, tự mình hiểu và nhận ra.”[10]

Như vậy, bậc A La Hán được xác định không phải là một trong những người chỉ loại bỏ các triền cái, nhưng là một người khi đoạn trừ các lậu hoặc đã trở thành bậc Lậu tận (āsavānaṃkhayā anāsavaṃ).
Theo kinh điển truyền thống, bậc Thánh quả Dự Lưu Thất Lai (Sotāpatti), đoạn trừ hoàn toàn kiến lậu; Thánh quả Nhất lai (Anāgāmī), đoạn trừ hoàn toàn dục lậu, và thánh quả A La Hán đoạn trừ hoàn toàn tất cả các lậu hoặc (bao gồm dục lậu, hữu lậu, kiến lậu và vô minh lậu).[11]

Thuật ngữ A La Hán ‘là một sự kết hợp của hai từ cụ thể là, ‘ari’ (thù địch) và, ‘hana’ (giết hay phá hủy).
Theo bản dịch Trung Quốc, A La Hán có ba nghĩa: nhất phá Tam độc tặc; nhị ứng Nhơn Thiên cúng; Tam lai thế bất sanh.
Vị ấy được gọi là ‘tất cả việc cần làm đã làm xong, không còn vướng bận bất cứ điều gì nữa, do đó không còn tái sanh trở lại trên thế gian này nữa’.

A La hán cũng được gọi là Bậc vô học (asekha) khác biệt với các bậc hữu học (sekha) vì họ vẫn phải còn tu học để đạt đến ‘vô học’.

A-la-hán được gọi là Sandhicchedo, nghĩa đen, người đã phá dỡ nhà, nghĩa là người đã chặt đứt mọi ràng buộc, tức là người đã phá tan căn nhà do tham ái thiết kế và do nghiệp xây dựng. Do vậy, Sau khi chứng đắc lậu tận trí dưới cội bồ đề, Đức Phật đã thốt lên bài kệ pháp với ý nghĩa tương tự: “Xuyên qua nhiều kiếp sống trong vòng luân hồi, Như Lai thênh thang đi, đi mãi. Như Lai đi tìm mãi mà không gặp, Như Lai đi tìm người thợ cất cái nhà này. Lặp đi lặp lại đời sống quả thật là phiền muộn. Này hỡi người thợ làm nhà, Như Lai đã tìm được ngươi. Từ đây ngươi không còn cất nhà cho Như Lai nữa. Tất cả sườn nhà đều gãy, cây đòn dông của ngươi dựng lên cũng bị phá tan! Như Lai đã chứng quả vô sanh bất diệt và Như Lai đã tận diệt mọi ái dục”. (Kinh Pháp Cú)

A-la-hán cũng được gọi là Hatāvakāso, nghĩa đen, người bỏ lỡ mọi cơ hội hay những dịp may có thể được lợi v.v... Bởi lẽ các Bậc A-la-hán không tạo cơ hội cho sự kéo dài mãi của hệ lụy, nên các Ngài được gọi là người hủy diệt mọi cơ hội.
Sau khi đã tẩy trừ mọi tham ái bằng đạo tuệ Siêu Thế cao nhất (A-la-hán đạo), và nhờ đó trở thành một Bậc không tin tưởng mù quáng, Bậc thông hiểu vô sanh, Bậc phá hủy ngôi nhà gọi là luân hồi, và Bậc đã giết chết mọi cơ hội; vị ấy xứng đáng là Bậc tối thượng nhân (Uttamapuriso), Bậc vô dục (Vitaraga), tức là người không còn đi tìm bất cứ cái gì để làm thỏa mãn các giác quan.[12]

Đức Phật cũng là bậc A La Hán, nhưng là A La Hán chánh đẳng giác. Ngài đã đoạn tận mọi lậu hoặc. Tưng Ưng Bộ Kinh III, phẩm ‘Tham Luyến’, phần ‘Chánh Đẳng giác’ định nghĩa: “Như Lai, này các Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, do yếm ly, ly tham, đoạn diệt sắc, được gọi là bậc Giải Thoát, không có chấp thủ, Chánh Đẳng Giác.”[13]

Theo Bhikkhu Bodhi, Phật giáo Bắc tạng có sự phân biệt lớn giữa quả vị A La Hán và Phật. Nhưng trong kinh tạng Pāli, sự khác biệt này là không nhiều. Một mặt, Đức Phật là một vị A La Hán, như là điều hiển nhiên từ câu tiêu chuẩn của sự kính trọng với Đức Thế Tôn (iti pi so bhagavā araham sammā sambuddho ...); mặt khác, vị A La Hán là Phật, trong ý nghĩa rằng vị ấy đã đạt tới sự toàn giác, tam miệu tam bồ đề (Sambodhi), bằng cách giác ngộ các chân lý tương tự mà chính Đức Phật đã nhận ra.
Có sự khác biệt nhỏ ở đây là giữa thuật ngữ Tam Miệu Tam Bồ Đề (Sambuddha Samma) và Thế Tôn Chánh Đẳng Chánh Giác. Một vị A la hán đã đạt được giác ngộ và giải thoát như một người đệ tử (savaka) của một vị Phật Hoàn Hảo Giác Ngộ.
Và vị Phật là người phát hiện ra con đường giác ngộ ấy rồi chỉ dạy cho hàng đệ tử tuân thủ thực hành theo. Tuy nhiên, để tránh sự phức tạp thêm, chúng ta nên phân biệt về mặt giải thoát chứng đắc và tuệ giác giữa một vị Phật và A La Hán.

Về mặt giải thoát, tất cả các vị A-la-hán, Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, tất cả vị Thế Tôn này đã diệt trừ Năm Triền cái, những nhiễm tâm khiến cho trí tuệ yếu ớt, đã an trú tâm vào Bốn Niệm xứ, đã chân chánh tu tập Bảy Giác chi, đã chứng được Vô thượng Chánh Đẳng Giác. Những điều này, tuy nhiên, những khía cạnh của con đường mà Đức Phật đã hoàn thành chung với các đệ tử A La Hán. Tức đồng đẳng về mặt giải thoát.

Kinh tạng Nikāya đề cập đến sự khác biệt như giữa Như Lai Thế tôn, các vị A La Hán, là “Một bậc Thế Tôn Giác Ngộ’ và ‘một Tỷ kheo giải thoát bởi trí tuệ’: Này các Tỷ-kheo, đây là sự sai biệt, sự đặc thù, sự sai khác giữa Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác và bậc Tỷ-kheo được giải thoát nhờ trí tuệ.”

Một vị Phật có chức năng phát hiện và giảng giải con đường mà mình đã chứng ngộ. Vị ấy đã chứng ngộ giáo lý thậm thâm vi diệu và giảng dạy sự thậm thâm vi diệu của giáo pháp cho chúng đệ tử. Tức chư vị đệ tử đều dưới sự hướng dẫn của Phật.[14]

Thế Tôn phân biệt sự khác biệt giữa Thế Tôn và các đệ tử A-La-Hán như vầy: “Như Lai, này các Tỷ-kheo, là bậc A-La-Hán, Chánh Đẳng Giác, làm cho khởi lên con đường (trước kia) chưa khởi, là bậc đem lại con đường (trước kia) chưa được đem lại, là bậc tuyên thuyết con đường (trước kia) chưa được tuyên thuyết, bậc tri đạo, bậc ngộ đạo, bậc thuần thục về đạo. Còn này, này các Tỷ-kheo, các vị đệ tử là những vị sống theo đạo, tiếp tục thành tựu (đạo).”[15]

Tóm lại, theo truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy, Tứ quả Thanh văn mà đỉnh cao nhất là thánh quả A La Hán là quả vị tu chứng cuối cùng và là mục tiêu cuối cùng trên lộ trình tu tập giải thoát.
Trong khi đó, truyền thống Phật giáo Bắc tạng cho rằng, Phật quả hay quả vị Phật mới là mục tiêu cuối cùng. Lộ trình tu hành đến Phật quả phải ngang qua con đường thực hành Bồ tát đạo, mà cụ thể là Lục độ ba la mật. Đây là sự khác biệt cơ bản nhất giữa hai truyền thống Nam tạng và Bắc tạng.

Mục đích của Phật giáo là đoạn tận khổ đau và chứng đắc Thánh quả giải thoát.
Kinh tạng Pāli đưa ra một biểu đồ cụ thể đó là mười kiết sử và các lậu hoặc được đoạn trừ dần thông qua việc áp dụng Tam vô lậu học giới, định tuệ, giúp cho hành giả nắm bắt vững chắc mục tiêu và pháp hành để đạt đến mục tiêu. Từ đó, việc thẩm định các mức độ thánh quả là rất rõ ràng, và minh bạch. Hành giả có thể tự mình kiểm nghiệm, xem mình đã đoạn trừ được những kiết sử, lậu hoặc nào, từ đó biết được cấp độ tu trì của mình đến đâu trên lộ trình tu học giải thoát, giác ngộ.

Copyright © by Game of Sound 2020-2022
Home | Bl❀g | FAQ | Top